Thụ tinh trong ống nghiệm là quá trình mà trứng và tinh trùng thụ tinh bên ngoài tử cung. Tỷ lệ thành công của quy trình thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc vào các yếu tố: chất lượng phôi, độ dày niêm mạc tử cung. Tuy nhiên, phương pháp này lại có nhiều rủi ro và gây hại cho sức khỏe.
Thụ tinh trong ống nghiệm(IVF) là quá trình cho trứng và tinh trùng thụ tinh bên ngoài tử cung. Trứng đã được thụ tinh( hay còn gị là phôi) sẽ được đặt trong tử cung sau khoảng từ 2-3 ngày sau khi được thụ tinh.
Nếu phôi tốt, nuôi phôi đến ngày thứ 5 rồi mới chuyển vào tử cung thì tỉ lệ thành công có thể cao tới khoảng 10-15% so với chuyển phôi vào tử cung thì tỉ lệ thành công có thể cao hơn khoảng 10-15%. Sau khoảng 2 tuần các bác sĩ có thể xác nhận xem người phụ nữ đã có thai hay chưa thông qua việc thử Beta HCG trong máu.
Khả năng có thai phụ thuộc vào chất lượng tổng thể của phôi và độ dày niêm mạc tử cung của người bạn. xác suất có thai sẽ cao hơn nếu chất lượng phôi thai tốt và niêm mạc đạt chuẩn từ 11- 14mm. Ngược lại, tỉ lệ thành công sẽ giảm khi chất lượng phôi kém và niêm mạc tử cung của người phụ nữ không tốt.
Quy trình thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm đựa lựa chọn điều trị trong những trường hợp sau: Được chuẩn đoán vô sinh không rõ nguyên nhân, tinh trùng yếu, bị tắc ống dẫn trứng, hoặc là trường hợp cặp vợ chồng đó không thành công với cá kĩ thuật khác như sử dụng thuốc hỗ trợ khả năng sinh sản hoặc bơm tinh trùng vào buồng trứng.
Đối với phương pháp này, trứng sẽ được trộn lẫn với hàng ngàn tinh trùng trong một chiếc đĩa đặc biệt, sau đó đĩa được đặt trong một tủ cấy đặc biệt mô phỏng các điều kiện tự nhiên.
Quá trình thụ tinh diễn ra trong điều kiện phòng thí nghiệm, sau khi chắc chắn trứng đã được thụ tinh thì cá phôi sẽ được đặt trở lại vào tử cung của người nữ thông qua một ống chuyển phôi đặc biệt đưa qua cổ tử cung.
Trong chu kì kinh nguyệt bình thường của người nữ, bác sĩ sẽ thu thập và thụ tinh một trứng được rụng từ buồng trứng.
Điều này tương tự như kĩ thuật thụ tinh ống nghiệm truyền thống nhưng khác ở chỗ là không sử dụng các loại thuốc kích trứng. Bời vì không được kích thích nhân tạo nên người nữ không cần thiết phải nghĩ ngơi như sau khi thụ tinh ống nghiệm cổ điển. Hơn nữa nếu làm theo phương pháp này không thành công thì người nữ có thể thử lại sớm hơn nếu muốn.
Là phương pháp dùng liều thuốc kích thích ứng và khoảng thời gian điều trị ngắn hơn so với thụ tinh trong ống nghiệm truyền thống.
Cũng như thụ tinh qua ống nghiệm truyền thống, thụ tinh trong ống nghiệm với kích thích nhẹ có các đặc điểm sau đây:
Người nữ sẽ dùng thuốc kích thích buồng trứng liều thấp trong một thời gian ngắn. Các loại thuốc kích thích buồng trứng không làm cản trở những chu kỳ tự nhiên như đối với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển. Chính vì vậy nó giúp rút ngắn thời gian điều tri thuốc khoảng 2 tuần và có thể tránh được tác dụng phụ của mãn kinh.
Tuy nhiên do liều thuốc sử dụng thấp nên số lượng trứng thu thập được sẽ ít hơn so với IVF thông thường. Đối với các phôi chất lượng phù hợp không được sử dụng hết thì có thể được trữ đông để sử dụng trong tương lai.
Để khả tăng sinh sản thì bệnh nhân phải sử dụng một số thuốc và có thể sẽ gặp một số tác dụng phụ như đau đầu, thay đổi tâm trạng, đau bụng, đầy hơi, xuất hiện những cơn nóng bừng mặt. Tuy nhiên các triệu chứng thường biến mất sau một thời gian ngắn, nếu các triệu chứng này không mất đi thì cần phải gặp bác sĩ càng sớm càng tốt.
Ngoài ra bệnh nhân còn có thể gặp phải vấn đề như hội chứng quá kích buồng trứng. Hội chứng này có thể gây ra các vấn đề như đau bụng hay cảm giác đầy hơi. Trong một vài trường hợp thì người bệnh có thể gặp một số triệu chứng như nôn hoặc buồn nôn, đi tiểu nhiều hơn bình thường, hơi thở ngắn, uể oải, đau bụng dữ dội, tăng cân cực kì nhanh.
Phương pháp này sẽ dễ dẫn đến tình trạng đa thai (vì lúc này một vài phôi sẽ được chuyển vào tử cụng của người nữ, do đó vẫn có khả năng là là tất cả sẽ đậu thai cùng một lúc).
Ngoài ra, người bệnh cũng có thể gặp một số vấn đề về tâm lí như căng thẳng hay phiền muộn.
Đối với phương pháp này thì tỷ lệ thành công còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của bác sĩ cũng như cơ sở vật chất của trung tâm y tế đó.
Ngoài ra một yếu tố cũng rất quan trọng liên quan đến tỉ lệ thành công chính là độ tuổi của người phụ nữ. Đối với phụ nữ dưới 35 tuổi thì tỉ lệ thành công sẽ cao hơn so với phụ nữ trên 40 tuổi.
Hi vọng những thông tin bổ ích này có thể phần nào đó giải đáp những thắc mắc của các cặp vợ chồng đang mong mỏi có những em bé thân yêu.
Vui lòng chọn ngày bắt đầu(*)
Vui lòng chọn chu kỳ(*)